Mô tả
Chim cun cút, gọi tắt là chim cút, có nguồn gốc ở châu Á, chúng sống thích hợp ở những vùng khí hậu ấm áp và hơi nóng. Lần đầu tiên giống này được thuần hoá ở Nhật bản từ thế kỷ thứ XI (Coturnix coturnix japonica). Lúc đầu người ta thuần hoá chúng để nuôi như một loài chim cảnh và chim hót, mãi đến năm 1900, cút Nhật bản mới được nuôi để lấy thịt và trứng ăn, sau đó nhanh chóng lan sang nhiều nước trên thế giới. Chim cút có nhiều giống khác nhau, chuyên thịt hoặc chuyên trứng, có giống chuyên nuôi để phục vụ săn bắn, như giống cút Bốp - oai (Bobwhile), có giống nuôi để làm cảnh, nghe hót như giống cút Xinh - ging (Singing quail). Ớ châu Mỹ cũng có nhiều giống, nhưng nuôi để lấy thịt và trứng thì chủ yếu vẫn là chim cút Nhật bản.
Hướng dẫn sử dụng
Chim cút thuộc nhóm chim bay (Carinatae), gầm 25 bộ, trong đó có Bộ gà (Galliformes) gồm những loài chim như gà, gà lôi, công, trĩ, chim cút... chúng có cánh ngắn, tròn nên bay kém, chân to, khoẻ, móng cùn. Mỏ ngắn, thích nghi với bới đất tìm thức ăn. Con trống sặc sỡ, nhất là vào mùa sinh sản. Chim non nở ra có lông che phủ và khoẻ.
Chim cút (chim cay) là một tên gọi chung cho một số chi chim có kích thước trung bình trong họ Trĩ (Phasianidae), hoặc trong họ Odontophoridae (chim cút châu Mỹ Tân thế giới) cùng bộ. Tài liệu này chỉ nói về các loài sinh sống trong khu vực Cựu thế giới (các châu lục ngoài châu Mỹ) thuộc họ Trĩ mà thôi. Các loài chim cút Tân thế giới (châu Mỹ) không có quan hệ họ hàng gần, nhưng chúng cũng được gọi là chim cút, do bề ngoài và các hành vi tập tính khá giống với các loài chim cút Cựu thế giới.
Các loài cun cút Cựu thế giới đôi khi cũng được gọi là chim cút, nhưng chúng thuộc về họ Turnicidae và chúng không phải là chim cút thật sự, cũng như chưa thấy ở đâu nuôi chúng với mục đích lấy thịt hay trứng ở quy mô thương mại như các loài chim cút.